Phạm vi hòa giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Phạm vi hòa giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như thế nào?
Nguyên tắc tiến hành hòa giải
Theo quy định tại Điều 205 BLTTDS 2015 thì việc hòa giải phải được tiến hành theo các nguyên tắc sau:
♦ Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình. Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của tố tụng dân sự là nguyên tắc Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5 BLTTDS) theo đó pháp luật thừa nhận và đảm bảo cho các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng dân sự được toàn quyền thể hiện ý chí, lựa chọn, quyết định thực hiện hay không thực hiện hành vi tố tụng nhất định.
Vụ án dân sự chỉ được phát sinh dựa trên yêu cầu khởi kiện của chủ thể khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, Tòa án không can thiệp, giải quyết các quan hệ dân sự khi không có đơn khởi kiện. Quá trình giải quyết vụ án trong mọi giai đoạn tố tụng, đương sự có toàn quyền thể hiện ý chí của mình bằng việc yêu cầu, thỏa thuận với nhau về đường lối giải quyết tranh chấp. Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự và việc thể hiện ý chí này chỉ được Tòa án chấp nhận trong trường hợp hoàn toàn tự nguyện không bị đe dọa hay ép buộc.
♦ Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội: Nội dung thỏa thuận của các đương sự chỉ được Tòa án chấp nhận khi nội dung này không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định; đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Mọi thỏa thuận vi phạm điều cấm của luật và trái đạo đức xã hội đều không được Tòa án công nhận.
Phạm vi hòa giải
Những vụ án dân sự không được hòa giải
Căn cứ quy định tại Điều 206 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, những vụ án dân sự không được hòa giải gồm
♦ Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước:
Vụ án yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước chỉ có thể được giải quyết bằng phán quyết của Tòa án thông qua phiên tòa xét xử. Pháp luật không thừa nhận thỏa thuận của các bên vì tính chất của loại tài sản này thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu nên một cá nhân không thể theo ý chí chủ quan của mình để thỏa thuận việc bồi thường.
Quy định này nhằm phòng ngừa trường hợp lợi dụng việc hòa giải để thỏa thuận, thương lượng gây thiệt hại, thất thoát tài sản của Nhà nước. Khi áp dụng điều luật này, cần lưu ý trường hợp tài sản của Nhà nước nhưng được Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó thì trường hợp này không thuộc trường hợp không được hòa giải theo quy định tại khoản 1 Điều 206 BLTTDS 2015.
♦ Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội: Giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội thì đương nhiên vô hiệu. Về mặt bản chất thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Do vậy, khi giải quyết các vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội thì Tòa án không tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của họ trong giao dịch này. Bởi nếu tiến hành hòa giải là đồng nghĩa với việc tạo điều kiện để các bên tiếp tục thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, trong vụ án mà các bên chỉ có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu thì Tòa án vẫn tiến hành thủ tục hòa giải theo thủ tục chung.
Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được
Căn cứ quy định tại Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được gồm
♦ Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt: Theo nội dung điều luật, Chủ thể được xác định là bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Thực tiễn áp dụng trường hợp trên gặp nhiều khó khăn, việc áp dụng không thống nhất bởi trong chính nội dung điều luật đã ẩn chứa những quy định mang tính định tính, được hiểu theo nhiều cách khác nhau và không có sự thống nhất giữa các điều luật quy định cùng nội dung.
♦ Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng: Chủ thể được xác định trong trường hợp này là “đương sự” (bao gồm nguyên đơn, bơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) không thể tham gia phiên hòa giải vì lý do chính đáng thì thuộc trường hợp không thể tiến hành hòa giải được, Tòa án sẽ ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Lý do chính đáng được xác định là các sự kiện xảy ra một cách khách quan, không lường trước được (xác định tương tự theo điểm c khoản 3 Điều 14 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP); các sự kiện này xảy ra không phụ thuộc và chịu sự chi phối của con người. VD: Bão lụt, thiên tai, sạt lở…..
♦ Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự: Quan hệ hôn nhân là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao hay ủy quyền cho cá nhân khác đại diện tham gia. Khi giải quyết vụ án ly hôn mà một bên là vợ hoặc chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được bởi một người mất năng lực hành vi dân sự là một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi và có Quyết định của Tòa án tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Người mất năng lực hành vi dân sự không thể hiện được ý chí, suy nghĩ của bản thân nên việc tổ chức phiên hòa giải cũng không có giá trị và không đạt được mục đích của hòa giải.
♦ Một trong các bên đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải: Để đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên đương sự, xuất phát từ thực tiễn xét xử, BLTTDS 2015 đã bổ sung trường hợp khi giải quyết vụ án dân sự mà một trong các bên đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải thì Tòa án không phải tiến hành hòa giải. Quy định này là phù hợp, tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, thể hiện rõ bản chất của vụ án dân sự “Việc dân sự cốt ở đôi bên”. Bởi khi đương sự có đề nghị không tiến hành hòa giải đã thể hiện ý chí không thiện chí hòa giải nên việc tổ chức phiên hòa giải cũng mang tính hình thức không có hiệu quả trong thực tiễn.
Nguồn trích dẫn: Tạp chí tòa án
Trên đây là nội dung bài viết Phạm vi hòa giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hãy liên hệ Lawkey để được giải đáp chi tiết những vướng mắc và sử dụng dịch vụ pháp lý uy tín nhé.
Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Hiện nay, pháp luật quy định có những biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự nào? Hãy cùng LawKey tìm hiểu qua bài viết [...]
Thời hạn hưởng chế độ tử tuất theo quy định pháp luật
LawKey xin gửi tới bạn đọc những điều cần biết về thời hạn nộp hồ sơ hưởng chế độ tử tuất theo quy định pháp [...]