Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là gì? Pháp luật quy định thế nào về Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân?
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là gì?
Người gây ra thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước,.. Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có ” khả năng” bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện.
Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân tại Điều 586 mà không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác. Do đó, các chủ thể khác được coi là có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự, BLDS quy định năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân.
Xem thêm: Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân theo Bộ luật dân sự 2015
Quy định về Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
Đối với người từ đủ mười tám tuổi trở lên
Khoản 1 Điều 586 BLDS quy định: Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường;
Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải tự bồi thường thiệt hại do họ gây ra. Điều này xuất phát từ “khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.” Họ phải chịu trách nhiệm do hành vi trái pháp luật của họ bằng tài sản của chính họ.
Tuy nhiên, trong điều kiện này, nhiều người tuy có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng khả năng về tài sản của họ trên thực tế không có (người 18 tuổi không có bất cứ khoản thu nhập nào, họ không có tài sản riêng để bồi thường). Vì vậy, khi quyết định bồi thường đối với những người này, có thể động viên cha mẹ bồi thường thay cho con em họ, nếu cha mẹ tư nguyện bồi thường thì ghi nhận sự tự nguyện đó mà không buộc cha mẹ bồi thường thay cho con em họ.
Người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, cha mẹ là người phải bồi thường thiệt hại do con em họ gây ra. Tuy nhiên, cách thức dùng tài sản để bồi thường được quy định đối với những người chưa thành niên khác nhau
Đối với người chưa đủ 15 tuổi và người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
Khoản 2 Điều 586 BLDS quy định “Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định về Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý;
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.”
Đối với người dưới 15 tuổi thì cha mẹ phải dùng tài sản của mình để bồi thường, nếu tài sản của cha mẹ không đủ mà con có tài sản riêng thì lấy tài sản của con để bồi thường. Đối với những người từ 15 đến dưới 18 tuổi thì áp dụng ngược lại, lấy tài sản của con để bồi thường, cha mẹ chịu trách nhiệm bổ sung phần còn thiếu.
Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Khoản 3 Điều 586 BLDS, quy định cụ thể: Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Những người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện quản lí thì trường học, bệnh viện phải bồi thường. Nếu các tổ chức nêu trên mà không có lỗi thì cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường.
Ví dụ: Tổ chức lao động cho các học sinh không tốt; đi tham quan, dã ngoại do trường tổ chức không có các biện pháp an toàn, bảo hộ; nhân viên bệnh viện không có biện pháp quản lí bệnh nhân tâm thần,..
Trên đây là nội dung Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân Lawkey gửi đến bạn đọc. Nếu có thắc mắc, vui lòng liên hệ Lawkey.
Xem thêm: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Một số biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác
Pháp luật dân sự quy định tại Điều 292 có 9 Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Cùng tìm hiểu Một số biện pháp [...]
Phân loại giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự 2015
Phân loại giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 được hiểu như thế nào? Cùng Lawkey tìm hiểu nội dung [...]