Xác định thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự
Xác định thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự được hiểu như thế nào? Bộ luật dân sự 2015 quy định những thiệt hại nào phải bồi thường ?
Quy định của pháp luật dân sự về xác định thiệt hại
Thiệt hại là điều kiện đầu tiên làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại chỉ có thể thực hiện được đầy đủ và chính xác khi xác định toàn bộ thiệt hại là bao nhiêu và trên cơ sở đó ấn định mức bồi thường.
Xác định thiệt hại là việc khó khăn và phức tạp. Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định đã về các loại thiệt hại được bồi thường và cách thức xác định thiệt hại một cách khái quát. Những thiệt hại phải bồi thường là thiệt hại về tài sản (Điều 589 BLDS), thiệt hại về sức khỏe (Điều 590 BLDS), thiệt hại về tính mạng (Điều 591 BLDS) và thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 592 BLDS).
Các thiệt hại phải bồi thường
1. Thiệt hại về tài sản
Điều 589 BLDS quy định về thiệt hại do tài sản bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:
– Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
– Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
– Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
– Thiệt hại khác do luật quy định.
Như vậy, thiệt hại về tài sản bao gồm thiệt hại trực tiếp nhằm phục hồi tình trạng tài sản ban đầu của người bị thiệt hại và thiệt hại gián tiếp liên quan đến việc khai thác và sử dụng tài sản trong thời gian từ khi xảy ra thiệt hại đến khi bồi thường. Thiệt hại về tài sản có thể tính toán được thành một số tiền nhất định bao gồm các khoản sau:
– Thiệt hại trực tiếp bao gồm:
+ Thiệt hại do tài sản bị mất ( tính đến tình trạng tài sản, thời giá thị trường tại thời điểm tài sản bị mất);
+ Tài sản bị hủy hoại là những tài sản không thể phục hồi chức năng ban đầu; tài sản bị hư hỏng là những chi phí hợp lí, cần thiết để phục hồi tài sản, bảo đảm tính năng sử dụng ban đầu như trước khi bị thiệt hại;
+ Những chi phí phải bỏ ra bao gồm chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại hoặc khắc phục thiệt hại.
– Thiệt hại gián tiếp bao gồm:
+ Lợi ích gắn liền với việc khai thác tài sản ( không thể khai thác tài sản trong suốt thời gian sửa chữa, khắc phục thiệt hại);
+ Những hoa lợi, lợi tức chắc chắn thu được nếu không có thiệt hại xảy ra và những chi phí cần thiết để hạn chế thiệt hại.
Việc bồi thường thiệt hại trực tiếp về tài sản có thể thực hiện bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc. Về nguyên tắc chung, các bên có thể thỏa thuận cách thức, mức độ bồi thường như sửa chữa hư hỏng, thay thế bằng tài sản khác có giá trị tương đương. Nếu không thể bồi thường bằng hiện vật thì trị giá tài sản để bồi thường. Khi trị giá tài sản phải căn cứ vào giá trị thị trường của loại tài sản đó có tính đến khấu hao tài sản do đã sử dụng tài sản
Xem thêm: Tài sản là gì? theo quy định của pháp luật dân sự hiện nay
2. Thiệt hại về sức khỏe
Sức khỏe của con người khó có thể xác định bằng một khoản tiền. Vì vậy, bồi thường thiệt hại về sức khỏe thực chất có ý nghĩa đền bù một phần thiệt hại về vật chất, tạo điều kiện cho nạn nhân hay gia đình họ khắc phục khó khăn do tai nạn gây nên và trong có ý nghĩa là một trợ cấp cho nạn nhân, gia đình nạn nhân.
Xác định thiệt hại về sức khỏe bao gồm:
– Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại ( tiền thuốc, tiền viện phí và các dịch vụ chữa bệnh, tiền bồi dưỡng, tiền tàu xe đi viện, tiền thay thế các bộ phận giả nếu có) Nếu do yêu cầu chăm sóc nạn nhân thì chi phí trực tiếp cho người phải chăm sóc nạn nhân theo yêu cầu của cơ sở chữa bệnh.
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
– Thiệt hại khác do luật quy định, cụ thể:
+ Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa thu nhập trước khi xảy ra tai nạn và sau khi điều trị. Những thu nhập này phải là những thu nhập thường xuyên, hợp pháp thực tế của họ;
+ Tổn thất về tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu. Đây là khái niệm trừu tượng và không thể tính được thành tiền một cách chính xác. Việc xác định tổn thất tinh thần khi sức khỏe bị xâm phạm phụ thuộc vào từng cá nhân của người bị thiệt hại ( tình trạng gia đình, độ tuổi, nghề nghiệp, mức độ thiệt hại và tùy thuộc vào bộ phận nào của cơ thể bị thiệt hại,..) Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe xâm phạm không quá 50 lần mức tháng lương cơ sở do nhà nước quy định.
Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
3. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
Tính mạng của con người vô giá và không thể tính thành tiền. Vì vậy, bồi thường thiệt hại về tính mạng thực chất là bồi thường vật chất phải bỏ ra liên quan đến cái chết của người bị thiệt hại. Những chi phí phải bỏ ra bao gồm:
– Chi phí bỏ ra trong trường hợp thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm đã nêu ở trên;
– Những chi phí hợp lí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc nạn nhân trước khi chết, chi phí hợp lí cho việc mai táng phù hợp với phong tục, tập quán.
– Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng ( con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động,..)
– Thiệt hại khác do luật quy định, cụ thể: Một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
5. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân không thể xác định. Thực chất là xác định những tổn thất về vật chất do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm,.. nhằm phục hồi tình trạng ban đầu của người bị xâm hại. Những chi phí đó bao gồm:
– Những chi phí phải bỏ ra và thu nhập bị mất ( thu nhập chứng cứ, thời gian phải bỏ ra để khiếu nại, đăng báo cải chính,..)
– Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
– Thiệt hại khác do luật quy định.
Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm
Trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường từ thời điểm mất hoàn toàn khả năng lao động cho đến khi chết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng từ thời điểm người có tính mạng bị xâm phạm chết trong thời hạn sau đây:
– Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân;
– Người thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.
Đối với con đã thành thai của người chết, tiền cấp dưỡng được tính từ thời điểm người này sinh ra và còn sống.
Trên đây là nội dung Xác định thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự Lawkey gửi đến bạn đọc. Nếu có thắc mắc, vui lòng liên hệ Lawkey.
Cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ giám định công nghệ
Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ giám định công nghệ? Hồ sơ, trình tự, thủ tục [...]
Án lệ số 15/2017/AL về công nhận thỏa thuận miệng của các đương sự
Án lệ số 15/2017/AL về công nhận thỏa thuận miệng của các đương sự trong việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông [...]