Giấy ủy quyền hay Hợp đồng ủy quyền
Ủy quyền là một trong hai hình thức đại diện được quy định tại Bộ luật dân sự. Tuy nhiên ủy quyền được thể hiện dưới hình thức Giấy ủy quyền hay hợp đồng ủy quyền mới đúng?
Ủy quyền cho cá nhân, tổ chức khác đại diện cho mình để thực hiện một hoặc một số công việc nhất định là nhu cầu phố biến hiện nay trong xã hội. Ví dụ, Khi thực hiện thủ tục thành lập doanh nghiệp mới, do không nắm rõ các quy định pháp luật có liên quan, người thành lập có thể ủy quyền cho luật sư, cá nhân có kinh nghiệm thực hiện thay cho mình. Tuy nhiên, cá nhân tổ chức khi ủy quyền phải lập Giấy ủy quyền hay Hợp đồng ủy quyền mới đúng là vấn đề pháp lý còn nhiều khúc mắc hiện nay.
1. Quy định về hình thức ủy quyền
– Hình thức uỷ quyền theo khoản 2 Điều 142 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản”.
Bộ luật dân sự 2015 đã không còn điều khoản quy định trực tiếp về hình thức ủy quyền. Tuy nhiên, theo Điều 140 Bộ luật dân sự 2015, pháp luật vẫn ghi nhận hình thức ủy quyền bằng văn bản nhưng cũng không quy định việc ủy quyền không được thể hiện bằng hình thức khác.
Như vậy, hình thức ủy quyền có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác như: thư điện tử, dữ liệu số,…
2. Sử dụng Giấy ủy quyền và Hợp đồng ủy quyền thế nào cho đúng
Đối với hình thức ủy quyền bằng văn bản, khi nào ủy quyền được thể hiện dưới hình thức Giấy ủy quyền và khi nào là Hợp đồng ủy quyền… chưa có quy định rõ ràng và còn nhiều tranh cãi.
2.1. Ghi nhận của pháp luật hiện hành về giấy ủy quyền, hợp đồng ủy quyền
Hợp đồng ủy quyền được ghi nhận tại Mục 12 Chương XVIII, phần thứ ba Bộ luật dân sự 2005 và tiếp tục được ghi nhận tại Mục 13 Chương XVI, phần thứ ba Bộ luật dân sự 2015: “Hợp đồng ủy quyền được định nghĩa là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, còn bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Tuy nhiên, cả Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015 đều không có điều khoản hay quy định cụ thể nào về hình thức Giấy ủy quyền. Nhưng thuật ngữ “Giấy ủy quyền” lại được ghi nhận tại nhiều văn bản pháp luật khác. Như khoản 1 Điều 107 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 quy định “Việc uỷ quyền tiến hành các thủ tục liên quan đến việc xác lập, duy trì, gia hạn, sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ phải được lập thành giấy uỷ quyền”. Thuật ngữ “Giấy ủy quyền” cũng được ghi nhận tại khoản 5 Điều 9 Thông tư số 15/2014/TT-BCA về đăng ký xe “Người được ủy quyền đến đăng ký xe phải xuất trình Chứng minh nhân dân của mình; nộp giấy ủy quyền có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc xác nhận của cơ quan, đơn vị công tác”.
Trước đây, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực cũng đã ghi nhận hình thức ủy quyền là Giấy ủy quyền tại Điều 48 như sau:
“1.Việc uỷ quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được uỷ quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp đồng….
2.Việc uỷ quyền không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì không phải lập thành hợp đồng uỷ quyền mà có thể được lập thành giấy uỷ quyền và chỉ cần người uỷ quyền ký vào Giấy uỷ quyền.”
Như vậy, cả hai hình thức ủy quyền bằng văn bản là Giấy ủy quyền và Hợp đồng ủy quyền đều được pháp luật ghi nhận.
2.2. Khi nào nên sử dụng Giấy ủy quyền và hợp đồng ủy quyền
Khi nào sử dụng hình thức Giấy ủy quyền, khi nào sử dụng hình thức Hợp đồng ủy quyền cần căn cứ cụ thể vào đối tượng công việc ủy quyền. Vì có những công việc khi ủy quyền, pháp luật quy định phải lập thành Hợp đồng ủy quyền và khi đó bên ủy quyền và bên được ủy quyền phải tuân thủ hình thức này.
Ví dụ: Việc ủy quyền quản lý nhà ở theo quy định tại khoản 2 Điều 155 Luật nhà ở 2014 quy định phải được lập thành hợp đồng. Cụ thể “Nội dung, thời hạn ủy quyền quản lý, sử dụng nhà ở do các bên thỏa thuận và được ghi trong hợp đồng ủy quyền; nếu các bên không có thỏa thuận về thời hạn ủy quyền thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày ký hợp đồng ủy quyền”.
Việc ủy quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp đồng ủy quyền theo quy định tại Điều 18 Nghị định 04/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng. Tuy nhiên nghị định này đã hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định 29/2015/NĐ-CP có hiệu lực.
Trên đây là một số quy định của pháp luật về Giấy ủy quyền và hợp đồng ủy quyền LawKey gửi đến bạn đọc.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là gì?
Các doanh nghiệp sắp phát hành chứng khoán ra thị trường cần phải tìm hiểu về bảo lãnh phát hành chứng khoán là gì và những [...]
Điều kiện cấp Giấy phép thiết lập mạng xã hội theo quy định mới nhất
Tổ chức, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện cấp Giấy phép thiết lập mạng xã hội quy định tại Nghị định 27/2018/NĐ-CP [...]